Lý giải tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cao, mức hưởng cao nhưng lương hưu thấp

Theo Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, nhiều doanh nghiệp tồn tại 3 loại thu nhập, gồm thu nhập thực tế, thu nhập để quyết toán và thu nhập căn cứ đóng BHXH. Có doanh nghiệp chia ra hơn 100 loại phụ cấp, phúc lợi để không tính là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thấp. Điều này dẫn đến mức lương hưu sau này thấp.

Chia hơn 100 loại phụ cấp, phúc lợi để giảm đóng BHXH

BHXH Việt Nam vừa cho ý kiến với đề xuất của 13 hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng kiến nghị giảm tỷ lệ đóng BHXH khi hoàn thiện dự thảo Luật BHXH sửa đổi.

Theo Luật BHXH hiện hành, tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc bằng 25,5% tiền lương tháng tính đóng, trong đó người lao động đóng 8%, người sử dụng lao động đóng 17,5%. Từ đó, các hiệp hội doanh nghiệp kiến nghị giảm mức đóng BHXH cho người lao động xuống 5%, người sử dụng lao động đóng còn 15%.

Lĩnh vực dệt may sử dụng nhiều lao động.

Trước kiến nghị trên, BHXH Việt Nam cho rằng, mức đóng BHXH đã được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, toàn diện trong các mối quan hệ đóng – hưởng, giá trị tuyệt đối, độ bao phủ BHXH, sự chia sẻ.

Theo BHXH Việt Nam, tỷ lệ đóng BHXH chỉ được cân nhắc điều chỉnh tăng có lộ trình trong Luật BHXH 2007. Từ Luật BHXH 2014 đến dự thảo Luật BHXH sửa đổi hiện nay đều không xem xét đến vấn đề này, để đảm bảo tính ổn định, bền vững.

Tỷ lệ đóng BHXH ở Việt Nam tương đương một số nước như Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia… nhưng tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa ở Việt Nam cao nhất khu vực, thậm chí cao nhất trên thế giới.

Số liệu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, tỷ lệ đóng BHXH ở Việt Nam tương đương một số nước trong khu vực, như: Trung Quốc (gần 33% tiền lương tháng), Nhật Bản (gần 30%), Malaysia (26,7%), Bồ Đào Nha (gần 35%), Đức (gần 40%), Brazil (29%), Argentina (27%)…

Về mức hưởng lương hưu tại Việt Nam tối đa bằng 75% tiền lương tính đóng (nữ đóng 30 năm, nam đóng 35 năm). Bình quân mỗi năm đóng được hưởng 2,5% tiền lương đóng đối với nữ và 2,14% đối với nam. Trong khi các nước như Trung Quốc và Hàn Quốc tỷ lệ này chỉ là 1%; bình quân của thế giới cũng chỉ khoảng 1,7%.

ILO cũng đánh giá, tỷ lệ đóng BHXH của Việt Nam đang tương đương mức đóng của các nước có hệ thống BHXH được thiết kế tương tự Việt Nam (có các chế độ tương tự, không tính bảo hiểm y tế). Một số nước có mức đóng BHXH thấp hơn nhưng các chế độ cũng ít hơn rất nhiều, một số rủi ro với người lao động doanh nghiệp sẽ phải chi trả khi xảy ra. Cụ thể trường hợp của Malaysia, mức đóng BHXH tương đương 26,7% lương tháng, thấp hơn Việt Nam, nhưng khi người lao động ốm đau, sinh con, người sử dụng lao động sẽ phải trực tiếp chi trả, quỹ BHXH không chi trả; tương tự với một số nước không có chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. ILO cho rằng, cần hết sức cẩn trọng khi so sánh mức đóng.

Theo đại diện BHXH Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp đang so sánh mức đóng BHXH với các nước có mô hình đóng – hưởng BHXH không tương đồng với Việt Nam. Với Việt Nam, tỷ lệ đóng BHXH cao, nhưng hưởng cũng cao. Tuy nhiên, lương hưu thực tế của người lao động lại thấp, do tiền lương tính đóng thấp. Năm 2022, mức lương hưu bình quân hằng tháng chỉ đạt 5,4 triệu đồng.

Luật BHXH đã quy định, từ năm 2018 trở đi, tiền lương tính đóng BHXH gồm tổng mức lương, phụ cấp lương và khoản bổ sung khác ổn định, thường xuyên được ghi trong hợp đồng lao động nhằm từng bước tiệm cận tiền lương, thu nhập thực tế của lao động.

Song nhiều doanh nghiệp thực thi không đầy đủ, tách thu nhập của người lao động thành nhiều khoản phụ cấp, trợ cấp để không phải tính đóng BHXH.

Thống kê của BHXH năm 2022, tiền lương làm căn cứ tính đóng BHXH của người lao động chỉ đạt 5,7 triệu đồng/tháng. Nhiều doanh nghiệp tồn tại ba loại thu nhập như: loại làm căn cứ đóng BHXH, loại để quyết toán và thu nhập thực tế. Có doanh nghiệp chia ra hơn 100 loại phụ cấp lẫn phúc lợi và cơ quan BHXH không đủ cơ sở pháp lý để yêu cầu doanh nghiệp tính đóng BHXH.

Dự thảo Luật BHXH sửa đổi đang xây dựng theo hướng giảm năm đóng BHXH tối thiểu để có lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm, nhưng không đề xuất điều chỉnh mức đóng – hưởng để bù đắp giảm số năm đóng của các trường hợp này (đóng ít nhưng có thể hưởng dài, mức hưởng thấp). BHXH Việt Nam nêu quan điểm, việc doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng BHXH đồng nghĩa sẽ giảm mức hưởng của người lao động vốn đã thấp do giảm số năm đóng, nên không phù hợp với điều kiện, bối cảnh thực tiễn của Việt Nam.

Từ những so sánh trên cho thấy, rất khó để đánh giá mức đóng BHXH của Việt Nam là cao hay thấp so với các quốc gia khác. Việc đánh giá tỷ lệ đóng BHXH cần được xem xét gắn với mô hình BHXH tại mỗi nước, mối quan hệ đóng – hưởng; các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động, chi phí lao động…

Khó giảm mức đóng BHYT

Về đề xuất giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp và BHYT, đại diện BHXH cho rằng, với mức đóng BHYT và quyền lợi hưởng BHYT như hiện nay, quỹ khám chữa bệnh BHYT trong năm đã tiệm cận với chi phí khám chữa bệnh BHYT phát sinh trong năm, bắt đầu có xu hướng phải sử dụng quỹ dự phòng để bổ sung (trừ năm 2020 do dịch COVID-19).

Về mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, hiện nay, trong Tờ trình số 05/TTr- LĐTBXH, ngày 1/2/2023 đề nghị xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi) của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trình Chính phủ; tại nhóm chính sách 2 cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất quy định mức đóng bảo hiểm thất nghiệp “tối đa” và giao Chính phủ quy định cụ thể mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động.

Các chính sách này đang được quy định tại các Luật chuyên ngành khác, vì vậy, khi Quốc hội giao Chính phủ nghiên cứu sửa đổi các Luật này, đề nghị các cơ quan chủ trì xem xét cụ thể về đề xuất giảm mức đóng mà Hiệp hội các doanh nghiệp có ý kiến, đánh giá trong mối tương quan với các điều kiện hưởng, phù hợp với thiết kế tổng thể của những chính sách này.

Theo: TTXVN
Spread the love
Back To Top