Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, từ đầu năm đến nay, sản xuất tôm – lúa trên địa bàn tỉnh hơn 106.000 ha, đạt 98% kế hoạch, sản lượng thu hoạch trên 30.000 tấn, bằng 44% kế hoạch.
Nông dân ấp Thạnh Hòa, xã Đông Thạnh, huyện An Minh (Kiên Giang) cân tôm bán cho thương lái.
Phát triển sản xuất tôm – lúa là loại hình nuôi trồng có thế mạnh ở các huyện An Minh, An Biên, U Minh Thượng, Gò Quao và Hòn Đất, đóng góp sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh. Năm 2022, sản lượng tôm nuôi thu hoạch theo mô hình sản xuất này của tỉnh hơn 61.310 tấn, chiếm 55% sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh.
Tiếp đó, nông dân thu về sản lượng lúa hàng trăm ngàn tấn phục vụ tiêu dùng và chế biến xuất khẩu. Nông dân vùng trọng điểm sản xuất tôm – lúa của tỉnh Kiên Giang nói rằng, đây là “Mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh”, vừa đem lại hai nguồn lợi kinh tế chủ yếu là tôm và lúa, vừa góp phần cải tạo đất, môi trường sinh thái tự nhiên và ứng phó biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn biến phức tạp.
Ông Lê Văn Hải, ở ấp Thạnh Hòa, xã Đông Thạnh, là thành viên Hợp tác xã Thạnh Hòa, huyện An Minh chia sẻ: “So với sản xuất độc canh cây lúa hoặc nuôi tôm theo cách truyền thống trước đây tại địa phương thì khi Hợp tác xã Thạnh Hòa thành lập, phát triển sản xuất tôm – lúa, mô hình này rất hiệu quả, giúp nông dân thoát nghèo, vươn lên khá giàu. Gia đình tôi có diện tích sản xuất 3 ha tôm – lúa và kết hợp thả nuôi cua. Hàng năm, trung bình một ha thu hoạch tôm từ 400 – 500 kg và 5 – 6 tấn lúa, sau khi trừ chi phí sản xuất, lợi nhuận từ 300 – 400 triệu đồng/năm. Tôm và lúa thu hoạch là sản phẩm sạch, chất lượng cao được doanh nghiệp đặt hàng thu mua chế biến xuất khẩu”.
Cũng theo ông Lê Văn Hải, để sản xuất hiệu quả, hợp tác xã thường xuyên tổ chức hội thảo đầu bờ có sự tham gia của các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật Phòng Nông nghiệp huyện. Qua đó, bà con thành viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm rút ra trong quá trình nuôi tôm, trồng lúa, kết hợp với hướng dẫn chuyên môn của cán bộ kỹ thuật, chuyển giao quy trình canh tác để ứng dụng vào thực tế sản xuất trên đồng đất. Mặt khác, hợp tác xã tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức tham quan trực tiếp những mô hình sản xuất tôm – lúa hiệu quả để bà con thành viên học tập kinh nghiệm.
Ông Nguyễn Việt Ảnh, Giám đốc Hợp tác xã Thạnh Hòa, huyện An Minh cho biết, tổng diện tích sản xuất tôm – lúa của hợp tác xã hơn 80 ha, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tôm nuôi ở đây gần như là nuôi sinh thái tự nhiên, chỉ sử dụng men vi sinh trong cải tạo ao đầm, xử lý nguồn nước và trồng lúa thì chọn giống chất lượng cao, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên cho sản phẩm nông sản sạch, chất lượng tốt được các doanh nghiệp, công ty đặt hàng bao tiêu sản phẩm thu mua chế biến xuất khẩu. Trong quá trình sản xuất tôm – lúa, các thành viên hợp tác xã còn thả nuôi xen cua, tôm càng xanh để tăng thêm thu nhập.
Tuy nhiên, khó khăn của nông dân Kiên Giang trong sản xuất tôm – lúa là giá cả trên thị trường không ổn định, giá vật tư nông nghiệp, xăng dầu tăng cao, nhiều nơi thiếu hệ thống điện bơm tưới… ảnh hưởng bất lợi trong sản xuất.
Theo ông Nguyễn Việt Ảnh, để mô hình tôm – lúa sản xuất bền vững, hiệu quả thì cần ổn định giá tôm ở mức 200.000 đồng/kg (loại 30 con/kg), trên dưới 180.000 đồng/kg (loại hơn 30 con/kg) và giá lúa từ 9.000 – 10.000 đồng/kg thì nông dân sản xuất mới có lợi nhuận khá.
Phấn đấu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh Kiên Giang phát triển thủy sản trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, trong đó, phát triển sản xuất tôm – lúa theo hướng an toàn, bền vững và hiệu quả, thích ứng biến đổi khí hậu.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030, ổn định diện tích sản xuất tôm – lúa 117.340 ha, sản lượng tôm thu hoạch từ 70.675 tấn trở lên, chiếm khoảng 45% tổng sản lượng tôm nuôi thu hoạch tỉnh.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang Quảng Trọng Thao cho biết: “Trong thời gian qua, đối với diện tích trồng lúa kém hiệu quả hoặc không đảm bảo nguồn nước tưới, tỉnh chuyển sang mô hình tôm – lúa. Mô hình này đã mang lại hiệu quả cho người sản xuất, từ thu nhập bình quân khoảng 50 triệu đồng/ha, tăng lên 100 – 130 triệu đồng/ha. Tỉnh tiếp tục chuyển sang phát triển mô hình tôm – lúa này đối với diện tích đất trồng lúa bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn từ 3 tháng trở lên phù hợp với từng vùng sinh thái trên địa bàn tỉnh. Tỉnh tập trung đẩy mạnh gia tăng sản lượng nuôi trồng trên đơn vị diện tích thông qua áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, các hình thực liên kết sản xuất hướng đến phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu”.
Theo đó, phát triển mô hình tôm – lúa, tỉnh Kiên Giang tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm tôm và lúa. Trong đó, doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ có vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi sản xuất. Tỉnh kiện toàn, củng cố, thành lập mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất như tổ hợp tác, hợp tác xã gắn với liên kết doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị tại những vùng sản xuất tôm – lúa trọng điểm, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tỉnh tiếp tục rà soát hiện trạng diện tích đất trồng lúa ở các huyện An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận và những vùng khác bị ảnh hưởng xâm nhập mặn để có thể chuyển đổi sản xuất lúa – tôm kết hợp hoặc nuôi tôm nước lợ.
Tỉnh phát triển mạnh sản xuất tôm – lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, nuôi trồng thủy sản hữu cơ, nuôi sinh thái… theo yêu cầu thị trường xuất khẩu, sử dụng mã vạch, mã số truy xuất nguồn gốc sản phẩm nuôi trồng, vùng nuôi tôm. Xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa, chỉ dẫn địa lý sản phẩm nuôi đặc trưng từng vùng trên địa bàn tỉnh.. Hướng dẫn nông dân kỹ thuật công nghệ mới, tiên tiến gắn với an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm.
Tỉnh tập trung nguồn lực đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, giao thông, điện phục vụ nuôi trồng thủy sản trọng điểm vùng Tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng; trong đó, chú trọng gia cố hệ thống đê, nạo vét kênh mương, tăng khả năng chủ động lấy nước, tiêu thoát để nuôi trồng thủy sản; hoàn thiện hệ thống công trình thủy lợi, hệ thống cống vùng nuôi thủy sản kết hợp trồng lúa…